Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

ĐỀ SỐ 3

ĐỀ SỐ 3
Câu 1. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
   Vẻ đẹp của Ba Vì biến ảo lạ lùng từng mùa trong năm. Từng giờ trong ngày. Thời tiết thanh tịnh, trời trong trẻo, ngồi phóng tầm mắt qua những thung lũng xanh biếc, Ba Vì hiện lên như hòn ngọc bích. Về chiều, sương mù tỏa biếc; Ba Vì nổi bồng bềnh như vị thần bất tử ngự trên sóng. Những đám mây nhuộm màu biến hóa muôn hình, nghìn dạng tựa như nhà ảo thuật có phép tại ra một chân trời rực rỡ. Khi vầng sáng nan quạt khép lại dần, trăng vàng mịn tựa như một lốt nhạc bay lên bầu trời, ru ngủ muôn đời thần thoại.
1.           Đọc đoạn văn trên mắc các lỗi về chính tả và dấu câu. Hãy chỉ ra vả nêu cách sửa các lỗi đó.
2.           Đoạn văn trên nói về điều gì?
3.           Chỉ ra những đặc sắc về nghệ thuật của đoạn văn vừa khôi phục.
4.     Đoạn văn đã sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
5. Chỉ ra hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ đã được sử dụng trong câu văn cuối đoạn.
6. Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) giới thiệu vẻ đẹp thiên nhiên quê hương của anh/chị.
Câu 2.
   Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hòa muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi bố ngủ rên, rên vì đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xao bóp khỏi.
   Bố đi chân đất. bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ sương còn dẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm. Cái thùng câu bao lần chà đi xát lại bằng sắn thuyền. Cái ống câu nhẵn mòn, cái cần câu bóng dấu tay cầm,… Con chỉ biết cái hòm đồ nghề cắt tóc sực mùi dầu máy tra tông-đơ, cái ghế xếp bao lần thay vải, nó theo bố đi xa lắm.
   Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi chân ấy: đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh.
(Theo Duy Khánh- Tuổi thơ im lặng)
        1.     Đoạn văn trên nói về điều gì?
2.        Đoạn văn đã sử dụng những phương thức biểu đạt nào?
3. Tình cảm của người con dành cho cha được biểu hiện qua những từ, ngữ, hình ảnh nào?
4. Phân tích biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn cuối.
5. Qua đoạn văn, ta thấy người bố có những đặc điểm gì?
       6. Từ hoàn cảnh của bản thân, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (200 chữ) trình bày trách nhiệm của bản thân đối với cha/ba/bố mình.

Câu 3.
   Nói đến những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không thể không nhắc đến nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.

   Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về nhận định trên./.

Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

Dàn ý- PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHÙNG TRONG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHÙNG TRONG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

I . Mở bài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng , một nghệ sĩ khao khát khám phá , sáng tạo ra cái đẹp , người luôn e sợ , trăn trở , suy tư về nhân cách và đời sống con người .

II . Thân bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

Phùng trong truyện vừa là nhân vật chính đồng thời lại là người kể chuyện . Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh . Trong tác phẩm , Phùng đã có những phát hiện quan trọng về cuộc sống và nghệ thuật .

Trước hết là nhận thức của Phùng về cái đẹp của nghệ thuật . Phùng đang đứng trước cảnh biển sớm khi mặt trời mới thức dậy qua đám mây ánh hồng .Phùng bộc lộ rung động trước “ Một cảnh đắt trời cho” mà “ suốt đời cầm máy chưa bao giờ thấy” . Nó đẹp “ như bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” Cảnh đó được nhìn từ xa nên “ Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” . Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua đôi mắt của người nghệ sĩ .Anh khẳng định “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp ,một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” .Phùng thực sự rung động “ Đứng trước nó tui trở nên bối rối .Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “ phát hiện ra khoảnh khắc trắng ngần của tâm hồn” . Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp .Anh thực sự biết quan sát lựa chọn cái đẹp của thiên nhiên ,cảnh vật ,con người .Sự rung động của người nghệ sĩ đã đến đúng lúc .Sự rung động thực sự khi đứng trước cái đẹp .Cái đẹp tự nhiên “ đắt giá” , “trời cho” ,mới thực sự làm rung động lòng người . Từ đây , ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời . Phùng còn nhận ra trong suy nghĩ của mình “ chẳng biết ai đó lần đầu phát hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức”.Đó là cái đẹp phải kết hợp với cái tâm ,cái tài kết hợp với cái thiện .

Nhận thức thứ 2 của Phùng là về bạo lực gia đình . Từ chiếc thuyền đẹp như mơ , Phùng thấy bước ra một đôi vợ chồng làng chài mệt mỏi , xấu xí , thô kệch .. “ Người đàn bà đứng lại , đưa cặp mắt nhìn xuống chân” . “ Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ ,mặt đỏ gay ,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Bạo lực gia đình là vấn đề tồn tại trong xã hội .Bước sang thế kỉ XXI chúng ta vẫn chưa dứt điểm được .ở đâu có bạo lực gia đình thì nạn nhân của nó là người vợ ,người mẹ và những đứa con tội nghiệp .Bạo lực là dấu hiệu của sự đau khổ ,rạn nứt của hạnh phúc gia đình .Nó làm tổn thương bao mối quan hệ của đời sống tình cảm con người

Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe dò phá mìn của mĩ trên bãi cát .Phải chăng cuộc chiến đầu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn ,mang lại niềm vui cho mọi người . Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra : Đói kém ,bệnh tật ,bạo lực gia đình …

Từ sự thật phũ phàng trên bãi biển về chiếc thuyền đánh ca đẹp như mơ , nghệ sĩ Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của những người dân chài lưới . Biết bao cảnh đời cứ phơi bày ra trước mắt : Một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi , cao lớn với những đường nét thô kệch . Mụ rỗ mặt . Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới , tái ngắt và dường như đang buồn ngủ . Người đàn ông đi sau . Tấm lưng rộng và cong như một con thuyền . Mái tóc tổ quạ .Lão đi chân chữ bát ,hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Cặp vợ chồng làng chài là nạn nhân của cái cùng kiệt khổ , vất vả lao động cật lực mà vẫn ngặt cùng kiệt vì miếng cơm manh áo vì đông con . Người đàn bà thú nhận : “ giá tui đẻ ít và chúng tui sắm được cái thuyền rộng hơn” .Thì ra đẻ nhiều ,thuyền nào cũng từ mười đến hơn mười đứa .Đây là nguyên nhân của sự đói cùng kiệt . Rồi thiên tai , trời làm động biển “ vợ chồng con cái phải ăn xương rồng chấm muối” Cái lí ở đời “ ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn ,cho nên phải gánh lấy cái khổ .Đàn bà ở thuyền chúng tui phải sống cho con chứ không thể sống như mình trên đất được” . Do con người, do thiên tai do cái lẽ ở đời đã ăn sâu ,bám bám rễ hàng ngàn đời nay mà người đàn bà phải chịu đau khổ .Người đàn ông vì vất vả cực nhọc ,không biết đổ cái bực tức , uất ức vào đâu , chỉ còn biết trút lên người vợ .

Cậu bé Phác thương mẹ nhưng hành động liều lĩnh, thiếu suy nghĩ. Nó chỉ nghĩ thương mẹ bị đánh mà sẵn sàng bỏ quên tình phụ tử. Xét cho cùng, Phác cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ xem cử chỉ của nó thì thấy: “ Cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt”. Hành động nhất thời của Phác “ Như viên đạn” bắn vào người bố và lúc này “ đang xuyên qua tâm hồn” người mẹ .Tình cảnh thật đau lòng . Làm thế nào để xoá đi những chuyện đau lòng trong gia đình này .

Phùng còn có nhận thức về cách giải quyết tấn bi kịch gia đình . Cách giải quyết của chánh án toà án huyện là : Gọi người đàn bà tới cơ quan và nói bằng giọng giận dữ: “ Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu” Cách giải quyết này tuy đứng về phía người đàn bà nhưng thiếu thực tế. Đáng lẽ phải tìm hiểu nguyên nhân, phân tích cụ thể, nắm bắt yêu cầu nguyện vọng. Cách giải quyết này thực sự chưa ổn. Không thể áp dụng lí thuyết sách vở mà phải căn cứ vào thực tế đời sống. Cách gợi ý của Đâủ làm cho căn phòng “ lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Cảm giác của Phùng thấy như vậy. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tuỳ tiện. Giải quyết li hôn càng làm cho gia đình rạn nứt và tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao ? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi vào lộng cần có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà .

Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông . Phùng đi gặp thằng Phác . Kết quả như thế nào , tác giả còn bỏ ngỏ . Chỉ biết bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng “ bao giờ tui cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh ,đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch ,tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá ,nửa thân dưới ướt sũng ,khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” .Phải chăng đây là sự trăn trở trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn , vất vả của người làm nghệ thuật . Đó là mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời .

III . Kết bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên , về sự thật cay đắng , đầy bi kịch , cùng kiệt khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới , đã bộc lộ những e sợ , trăn trở của nhà văn về nhân cách , đời sống con người , bộc lộ lòng thương cảm , trắc ẩn , trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động . Truyện đậm chất tự sự , triết lý , tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu .

Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa (NMC)


HS đọc và phát hiện những lỗi của bài viết này.
Bổ sung, sửa chữa lại cho phù hợp với yêu cầu đề
----------------------------------------

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học,1993, số 3, tr.20).

Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khámphá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: 

“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hay lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. 

Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tui đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tui sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…

Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “tui nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. tui đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tui cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. 

Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.

Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. 

Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống cùng kiệt khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. 

Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hay số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). 

Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? 

Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tui vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tui nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tui cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.

(Sưu tầm)


PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHÙNG TRONG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

I . Mở bài

Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng , một nghệ sĩ khao khát khám phá , sáng tạo ra cái đẹp , người luôn e sợ , trăn trở , suy tư về nhân cách và đời sống con người .

II . Thân bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

Phùng trong truyện vừa là nhân vật chính đồng thời lại là người kể chuyện . Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh . Trong tác phẩm , Phùng đã có những phát hiện quan trọng về cuộc sống và nghệ thuật .

Trước hết là nhận thức của Phùng về cái đẹp của nghệ thuật . Phùng đang đứng trước cảnh biển sớm khi mặt trời mới thức dậy qua đám mây ánh hồng .Phùng bộc lộ rung động trước “ Một cảnh đắt trời cho” mà “ suốt đời cầm máy chưa bao giờ thấy” . Nó đẹp “ như bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” Cảnh đó được nhìn từ xa nên “ Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” . Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua đôi mắt của người nghệ sĩ .Anh khẳng định “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp ,một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” .Phùng thực sự rung động “ Đứng trước nó tui trở nên bối rối .Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “ phát hiện ra khoảnh khắc trắng ngần của tâm hồn” . Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp .Anh thực sự biết quan sát lựa chọn cái đẹp của thiên nhiên ,cảnh vật ,con người .Sự rung động của người nghệ sĩ đã đến đúng lúc .Sự rung động thực sự khi đứng trước cái đẹp .Cái đẹp tự nhiên “ đắt giá” , “trời cho” ,mới thực sự làm rung động lòng người . Từ đây , ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời . Phùng còn nhận ra trong suy nghĩ của mình “ chẳng biết ai đó lần đầu phát hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức”.Đó là cái đẹp phải kết hợp với cái tâm ,cái tài kết hợp với cái thiện .

Nhận thức thứ 2 của Phùng là về bạo lực gia đình . Từ chiếc thuyền đẹp như mơ , Phùng thấy bước ra một đôi vợ chồng làng chài mệt mỏi , xấu xí , thô kệch .. “ Người đàn bà đứng lại , đưa cặp mắt nhìn xuống chân” . “ Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ ,mặt đỏ gay ,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Bạo lực gia đình là vấn đề tồn tại trong xã hội .Bước sang thế kỉ XXI chúng ta vẫn chưa dứt điểm được .ở đâu có bạo lực gia đình thì nạn nhân của nó là người vợ ,người mẹ và những đứa con tội nghiệp .Bạo lực là dấu hiệu của sự đau khổ ,rạn nứt của hạnh phúc gia đình .Nó làm tổn thương bao mối quan hệ của đời sống tình cảm con người

Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe dò phá mìn của mĩ trên bãi cát .Phải chăng cuộc chiến đầu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn ,mang lại niềm vui cho mọi người . Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra : Đói kém ,bệnh tật ,bạo lực gia đình …

Từ sự thật phũ phàng trên bãi biển về chiếc thuyền đánh ca đẹp như mơ , nghệ sĩ Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của những người dân chài lưới . Biết bao cảnh đời cứ phơi bày ra trước mắt : Một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi , cao lớn với những đường nét thô kệch . Mụ rỗ mặt . Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới , tái ngắt và dường như đang buồn ngủ . Người đàn ông đi sau . Tấm lưng rộng và cong như một con thuyền . Mái tóc tổ quạ .Lão đi chân chữ bát ,hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Cặp vợ chồng làng chài là nạn nhân của cái cùng kiệt khổ , vất vả lao động cật lực mà vẫn ngặt cùng kiệt vì miếng cơm manh áo vì đông con . Người đàn bà thú nhận : “ giá tui đẻ ít và chúng tui sắm được cái thuyền rộng hơn” .Thì ra đẻ nhiều ,thuyền nào cũng từ mười đến hơn mười đứa .Đây là nguyên nhân của sự đói cùng kiệt . Rồi thiên tai , trời làm động biển “ vợ chồng con cái phải ăn xương rồng chấm muối” Cái lí ở đời “ ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn ,cho nên phải gánh lấy cái khổ .Đàn bà ở thuyền chúng tui phải sống cho con chứ không thể sống như mình trên đất được” . Do con người, do thiên tai do cái lẽ ở đời đã ăn sâu ,bám bám rễ hàng ngàn đời nay mà người đàn bà phải chịu đau khổ .Người đàn ông vì vất vả cực nhọc ,không biết đổ cái bực tức , uất ức vào đâu , chỉ còn biết trút lên người vợ .

Cậu bé Phác thương mẹ nhưng hành động liều lĩnh, thiếu suy nghĩ. Nó chỉ nghĩ thương mẹ bị đánh mà sẵn sàng bỏ quên tình phụ tử. Xét cho cùng, Phác cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ xem cử chỉ của nó thì thấy: “ Cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt”. Hành động nhất thời của Phác “ Như viên đạn” bắn vào người bố và lúc này “ đang xuyên qua tâm hồn” người mẹ .Tình cảnh thật đau lòng . Làm thế nào để xoá đi những chuyện đau lòng trong gia đình này .

Phùng còn có nhận thức về cách giải quyết tấn bi kịch gia đình . Cách giải quyết của chánh án toà án huyện là : Gọi người đàn bà tới cơ quan và nói bằng giọng giận dữ: “ Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu” Cách giải quyết này tuy đứng về phía người đàn bà nhưng thiếu thực tế. Đáng lẽ phải tìm hiểu nguyên nhân, phân tích cụ thể, nắm bắt yêu cầu nguyện vọng. Cách giải quyết này thực sự chưa ổn. Không thể áp dụng lí thuyết sách vở mà phải căn cứ vào thực tế đời sống. Cách gợi ý của Đâủ làm cho căn phòng “ lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Cảm giác của Phùng thấy như vậy. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tuỳ tiện. Giải quyết li hôn càng làm cho gia đình rạn nứt và tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao ? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi vào lộng cần có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà .

Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông . Phùng đi gặp thằng Phác . Kết quả như thế nào , tác giả còn bỏ ngỏ . Chỉ biết bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng “ bao giờ tui cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh ,đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch ,tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá ,nửa thân dưới ướt sũng ,khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” .Phải chăng đây là sự trăn trở trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn , vất vả của người làm nghệ thuật . Đó là mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời .

III . Kết bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên , về sự thật cay đắng , đầy bi kịch , cùng kiệt khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới , đã bộc lộ những e sợ , trăn trở của nhà văn về nhân cách , đời sống con người , bộc lộ lòng thương cảm , trắc ẩn , trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động . Truyện đậm chất tự sự , triết lý , tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu .

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Luyện thi Đề 27


ĐỀ THI THAM KHẢO                                     ĐỀ 27
I.         Đọc hiểu văn bản: (3 điểm)
Văn bản 1.Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn đá nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập.”
                                        (Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân)
a)      Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản và lí giải
b)      Xác định biện pháp tu từ trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của chúng
c)      Hãy cho biết nội dung đoạn văn
Văn bản 2.Đọc kỹ đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi.
“…Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ, có thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cháu hơn là linh hồn của mình. Tuy coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ được mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc ngiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường, hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ (…). Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo hộ quốc dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn. Đối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hòa hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình.”
( Trần Đình Hựơu, Trích “Đến hiện đại từ truyền thống”, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996)
a)      Ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của đoạn trích trên.
b)      Xác định phương thức  biểu đạt chính của đoạn văn trên.
c)      Kiểu câu ( xét theo mục đích giao tiếp) được sử dụng trong đoạn trích trên là gì?
d)      Xác định phép liên kết trong hai câu sau:
“Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn.”
e)Nêu nội dung chính của đoạn văn trên
II.      .Nghị luận xã hội: (3 điểm)
“Mỗi giọt máu cho đi. Một cuộc đời ở lại”
Từ khẩu hiệu trên, hãy viết một bài văn ngắn nêu suy nghĩ của em về hiện tượng tham gia hiến máu nhân đạo của nhiều thanh niên, học sinh hiện nay.
III.   Nghị luận văn học: (4 điểm)

Phân tích hình tượng “sóng” trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh. Từ đó anh/chị có cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu?

Luyện thi-Đề 28

 ĐỀ THI THAM KHẢO                                     ĐỀ 28
I.         Đọc hiểu văn bản: (3 điểm)
1)        Văn bản 1
“Mẹ tôi lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe. Đến bấy giờ tôi mới kịp nhận ra mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Hay tại sự sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc? Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn mai khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.”
                                        (Trích: “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng)
a)      Xác định phương thức biểu đạt của văn bản và lí giải
b)      Xác định biện pháp tu từ và hiệu quả sử dụng của chúng
c)      Hãy cho biết nội dung văn bản
2)        Văn bản 2
“Trăng lên. Gío mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng sông Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn lòng. Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người”.
(Theo Hà Ánh Minh, báo Người Hà Nội)
a)      Đặt tên cho văn bản
b)      Chỉ ra phuơng thức biểu đạt chính của văn bản
c)      Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản và lí giải
d)      Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong văn bản
e)      Cho biết thái độ, tình cảm của người viết
II.      Nghị luận xã hội: (3 điểm)
Viết bài văn ngắn (Khoảng 600 từ) bàn về câu hát: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng . Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”. (Trịnh Công Sơn)
III.   Nghị luận văn học (4 điểm)

Cảm nhận của anh (chị) về tính sáng tạo của các tác giả qua một số đoạn trích trong “Sóng” của Xuân Quýnh và Đàn ghi-ta của Lorca” (Thanh Thảo)

Luyện thi - Đề 29

I.Đọc hiểu văn bản: (3.0 đ)
1)        Văn bản 1
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Nhười chết như  ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.”
                                        (Vợ nhặt Kim Lân)
a)      Ghi lại câu văn nêu chủ đề của đoạn văn trên.
b)      Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên.
c)      Xác định 2 biện pháp tu từ trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của chúng.
d)      Hãy nêu nội dung chính của đoạn văn.
Văn bản 2:Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi.
     Ngồi trước bản thống kê với hơn 1.000 kết quả xét nghiệm huyết học được dùng cho ít nhất 2.000 bệnh nhân ( trung bình một kết quả phiếu xét nghiệm được sử dụng cho 2-5 bệnh nhân), chúng tôi không khỏi giật minh vì sự liều lĩnh của phòng xét nghiệm bệnh viện Đa khoa Hoài Đức.
     Đọc kĩ hồ sơ, chúng tôi càng choáng, bởi lẽ, nhiều bệnh nhân khác xa nhau về bệnh án, về lứa tuổi, nhưng đều dùng chung một kết quả xét nghiệm.
    Thí dụ, một kết quả xét nghiệm huyết học vào hồi 9h ngày 19-2-2013 được dung cho 4 bệnh nhân: Nguyễn Thị Nguyên – 70 tuổi, chẩn đoán lao phổi; Nguyễn Trung Nghĩa - 27 tuổi, chẩn đoán ápxe cạnh hậu hôn; Lý Thị Vân – 61 tuổi, chẩn đoán viêm phế quản của người bệnh cao huyết áp và cháu Lương Kiều Trang – 12 tuổi, chẩn đoán viêm ruột thừa.
     Với cách làm này, hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân như thế nào ai cũng có thể hình dung được!
                                                       ( Theo Dân Trí)
a)        Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
b)        Nội dung của văn bản trên là gì?
c)        Hãy đặt nhan đề cho văn bản.
II.Nghị luận xã hội: (3 điểm)
      Anh/ chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ) bàn về vẻ đẹp của phong trào “Tiếp sức mùa thi” của sinh viên, thanh niên Việt Nam.
III.Nghị luận văn học: (4 điểm)
      Về nhân vật thị trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là người phụ nữ lao động nghèo, cùng đường và liều lĩnh. Nhưng  ý kiến khác lại nhấn mạnh: Thị là người giàu nữ tính và khát vọng.
       Từ cảm nhận của mình về nhân vật, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.


Luyện thi-THPT-Đề 30

ĐỀ THI THAM KHẢO                                     ĐỀ 30
I.Đọc hiểu văn bản: (3.0 đ)
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
Văn bản 1
     Người dân TP HCM từ lâu đã xem Nguyễn Văn Minh Tiến như Lục Vân Tiên giữa đời thường và đặt cho anh bao biệt danh như “ Hiệp sĩ săn bắt cướp”, “ Hiệp sĩ đường phố”, “ Hiệp sĩ Sài Gòn”… Hằng ngày , bằng chiếc xe dream xoáy nòng, có thể tăng tốc tới …170 km/giờ, Tiến rong ruổi trên nhiều nẻo đường để truy bắt những tên cướp điện thoại, giật túi xách, nữ trang…của người dân. Không thể nhớ hết Tiến cùng đồng đội đã bắt cướp lấy lại tài sản cho bao nhiêu người, nhưng họ đã trở thành biểu tượng cho tinh thần nghĩa hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”.
     Để có những chiến công, các hiệp sĩ phải đổ cả máu, nước mắt và có những nỗi đau khó nói thành lời. sự việc Tuấn “Chó” dẫn đám giang hồ xách theo hung khí vào nhà chém xối xả hiệp sĩ Nguyễn Tăng Tiến vào rạng sáng 27/6 vì “tội” xâm phạm chuyện làm ăn bất chính của chúng khiến tinh thần của các anh em đồng nghiệp chấn động.
   Gian nguy, mất mát nhưng tinh thần trừ gian diệt ác trong những con người này dường như chưa bao giờ nhụt chí. Hàng ngày, họ vẫn tự nguyện rong ruổi khắp các tuyến đường để đeo bám tội phạm, ngăn chặn mọi hành vi phạm tội vì sự bình yên với mục tiêu “không để tội phạm còn đất sống”. những việc làm của họ đã trở thành biểu tượng của sức trẻ mạnh mẽ, đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm ở vùng đất  phía Nam.
a)        Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản và lí giải.
b)        Nêu nội dung của văn bản và đặt tên cho văn bản trên.
c)    Tại sao anh Minh Tiến lại được gọi là "Hiệp sĩ đường phố"?
d)        Viết đoạn văn (khoảng 10-15 câu) về tinh thần trách nhiệm cao cả của người công dân đối với xã hội.
Văn bản 2
“Trong rừng ít có lọai cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người ta bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn lõang, vết thương không lành được, cứ lóet mãi ra năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được đầu người, cành lá sum sê như những con chim đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã...Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng
                                         ( Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành)
a)        Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
b)        Ghi lại câu nêu khái quát chủ đề của đoạn văn trên.
c)        Chỉ ra 2 biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của nó.
d) Viết đoạn văn trình bày vể sức sống mãnh liệt của con người VN
II.Nghị luận xã hội: (3 điểm)
Viết bài văn ngắn (Khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của em về việctrung thực trong thi cử.
III.Nghị luận văn học (4 điểm)
    Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp thơ mộng của cảnh vật. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người.
Còn anh/chị có ý kiến gì? Qua hình tượng nhân vật Phùng, hãy làm rõ quan điểm của mình.